Wednesday, May 20, 2009

Chủ đề khỉ trong văn hóa Á châu

Từ một lịch sử lâu đời khoảng trên 3,000 năm, hai cái nôi văn hóa Ấn Độ và Trung quốc đã giữ một vai trò quan trọng trong sinh hoạt văn hóa và tôn giáo của vùng Á châu, và thời gian sau đó là sự phát triển đáng lưu ý của Nhựt Bổn.
Khỉ là một chủ đề hay mẫu hình (motif) rất phổ biến tại Á châu. Cách nay hơn 2,000 năm, huyền sử thi nổi tiếng Ramayana của Ấn Độ giáo (Hinduism) có sáu nhân vật chính Rama, Sita, Lakshmana, Bharata, Hanuman và Ravana, trong đó Hanuman - con của Thần Gió Maruti và Thần Anjana- là thần khỉ biểu tượng cho lòng bảo vệ và phục vụ tận tụy cho vua Rama qua việc thống lãnh một đội binh khỉ chiến đấu với vua Ravana.
Tranh vào thế kỷ XVII vẽ cảnh thần khỉ Hanuman với vua Rama và hoàng hậu Sita.
Khi Phật giáo truyền từ Ấn Độ vào Trung quốc, niềm tin về con khỉ cũng được truyền theo.. Đời nhà Minh, Trung quốc, khoảng thập niên 1590, một tác phẩm được truyền bá rộng rãi là Tây Du ký ra đời nhưng không nêu tên tác giả - về sau người ta cho rằng Ngô Thừa Ân (1500-1581) là tác giả.
Tây Du ký là cuốn truyện được thần thoại hóa, kể về cuộc hành trình từ Trung quốc qua Ấn Độ để thỉnh kinh Phật của Đại Sư Trần Huyền Trang với Tôn Ngộ Không, một trong ba đệ tử. Nhân vật con khỉ Tôn Ngộ Không được nhiều học giả tin rằng là một mô phỏng thần khỉ Hanuman của Ấn Độ giáo, và có thể xem Tôn Ngộ Không là nhân vật chính trong truyện (khi dịch qua tiếng Anh, Arthur Waley đã lấy tựa đề là Monkey):
Tác gia Trung quốc Hồ Thích nhận rõ rằng trong truyện thần thoại Trung quốc Tây Du ký, nguyên hình của Tôn Ngộ Không chính là con khỉ thần Hanuman theo Phật giáo truyền vào Trung quốc.. Bởi vì sự sùng bái khỉ của người Ấn Độ, họ để cho khỉ tự do ở tại miếu thờ và khỉ có thể theo họ vào vườn hoặc hái trái cây tự do. Chỉ mới tới nay, càng ngày càng nhiều người Ấn Độ hiểu ra rằng khỉ là giống thú có hại, ngẫu nhiên khi bị khỉ quào bị thương, họ bèn nhốt khỉ vào cốp xe, chở ra chỗ xa để phóng thích khỉ.
Trung quốc tác gia Hồ Thích canh nhận vi Trung quốc thần thoại "Tây Du ký" trung đích Tôn Ngộ Không đích nguyên hình thị thủ tự Cáp Nô Mạn, tùy khán Phật giáo truyền nhập Trung quốc. Do vu Ấn Độ nhân đích sùng bái hầu, tại dĩ tiền tha môn hội nhượng hầu trụ tại miếu vũ lý đích địa thượng, tịnh nhượng hầu tòng tha môn đích viên lý hoặc trác thượng thủ thủy quả. Đãn hiện tại, việt lai việt đa đích Ấn Độ nhân giác đắc hầu tử thị hại thú, ngẫu nhiên bị hầu tử trảo thương, tiện hội bả tha môn tễ tiến xa sương, nhiên hậu thích phóng đáo ly tha môn ngận viễn đích địa phương..
Ngày nay người ta thường thấy tranh vẽ, điêu khắc hoặc tượng ba-con-khỉ-bịt-tai, bịt-miệng-và-bịt-mắt để bày tỏ thái độ không thấy, không nghe, và không nói - đôi khi có thêm con khỉ thứ tư ôm bụng hoặc khoanh tay: không làm.
Ngụ ý của ba hay bốn hành động nêu trên có thể suy diễn theo nhiều bối cảnh khác nhau. Đối với xã hội, một người có thể sử dụng mẫu hình nêu trên để bày tỏ thái độ không cộng tác, tương tự như việc cạo đầu của các sư sãi Phật giáo được tin là để từ bỏ đời sống phàm tục, hoặc khoác chiếc áo màu vàng tượng trưng cho sự xa lìa trần thế. Trong bối cảnh cá nhân, một người có thể dùng mẫu hình đó để bày tỏ thái độ không muốn dính dáng gì đến hoạt cảnh chung quanh, hoặc để khinh bỉ người nào đó, việc nào đó nên phớt tỉnh Ăng-lê, không dây với hủi, tự xem mình như người bị điếc, câm và đui. Trong bối cảnh giữ giới luật thì mẫu hình này dùng để nhắc nhở người ta không nên tò mò, tọc mạch xục xạo chuyện của người khác với dụng ý xấu xa, và không nên nói càn, nói bướng hoặc nói chuyện nhảm nhí. Tôi nghe nói ở Việt Nam, mẫu hình ba con khỉ này được bày bán khắp nơi.
Xét về nguồn gốc của mẫu hình ba-con-khỉ-bịt-tai, bịt-miệng-và-bịt-mắt thì không có một bằng chứng nào chính xác cả. Tuy nhiên, căn cứ vào khối lượng của các hình tượng nghệ thuật, điêu khắc, câu đối, tranh vẽ, v.v. được lưu truyền trong dân gian từ xưa đến nay, có thể kết luận rằng mẫu hình này chỉ có thể xuất phát từ Nhựt Bổn mà triết lý của nó có thể bắt nguồn từ Phật giáo hoặc từ Nho giáo của Trung quốc truyền qua.
Nhựt Bổn vốn là một nước theo Thần đạo, trong đó thần khỉ được xem là sứ giả của Sơn Vương Mạn Đồ La, đồng thời cũng được xem như là một vị thần bảo vệ. Đó là lý do mà các bia đá, tranh khỉ được đặt khắp tại các cổng ra vào của chùa, đền, miếu, và đặc biệt ở chuồng ngựa. Tượng con khỉ 4 mặt tại miếu Phật giáo Đông Kinh Nhựt Bổn chính là con khỉ thần 4 mặt 8 tay Hanuman trong cuốn huyền sử thi Ramayana.
Trong Tây Du ký, sự kiện Tôn Ngộ Không được Ngọc Hoàng phong cho chức Bật Mã Ôn để giữ ngựa cho thiên đình hầu chắc có liên quan đến vai trò bảo vệ của khỉ. Một bức tranh khắc gỗ ba-con-khỉ-bịt-tai, bịt-miệng-và-bịt-mắt rất nổi tiếng được tìm thấy tại mái hiên chuồng ngựa của ngôi đền Toshogu, Nikko, Nhựt Bổn.
Nhựt Bổn Đông Kinh Phật giáo miếu đích hầu tử tứ diện tượng Ấn Độ sử thi "La Ma Diễn Na" trung đích Cáp Nô Mạn (Hanuman ) tựu thị Ấn Độ giáo trứ danh đích thần thánh thể, thị nhất ủng hữu tứ trương kiểm và bát chỉ thủ đích thần hầu.
Đền Toshogu (tên bằng Hán tự: Nhựt Quang Đông Chiếu Cung) được xây cất vào năm 1617 để dâng hiến cho Tokugawa Ieyasu, người thành lập chế độ Tướng quân (1603-1868 AD).
Tiếng Nhựt gọi con khỉ bịt tai là Kikazaru, bịt miệng là Iwazaru, bịt mắt là Mizaru, và ôm bụng hay khoanh tay là Shizaru. Đối với người Nhựt, bịt-tai, bịt-miệng-và-bịt-mắt biểu tượng như một khuôn vàng thước ngọc trong cung cách sống để hòa hợp vào trong tập thể - tập thể vốn được xem là quan trọng nhất, và nếu cần, hy sinh phần cá nhân.
Ba-con-khỉ-bịt-tai, bịt-miệng-và-bịt-mắt được tìm thấy tại mái hiên chuồng ngựa của ngôi đền Toshogu, Nikko, Nhựt Bổn.
Trong ý nghĩa tôn giáo, mẫu hình ba-con-khỉ-bịt-tai, bịt-miệng-và-bịt-mắt được một số người cho rằng có liên quan đến phái Thiền Đại Thừa Thiên Đài tông do Sư Saicho sáng lập tại Nhựt Bổn:
Phái Thiên Đài phát xuất từ chùa Tịnh Cư, núi Đại Tô bên Trung quốc. Bởi vì người sáng lập nó là Trí Di thường trú tại núi Thiên Đài để thuyết pháp vì thế có tên là Phái Thiên Đài. Phái Thiên Đài là một tông phái Phật giáo của Trung quốc được sáng lập sớm nhất, đồng thời vào đầu thế kỷ thứ IX được tăng nhân Nhựt Bổn tên là Tối Trừng truyền trở lại Nhựt Bổn.
Đầu mối của phái Thiên Đài có 9 tổ: Long Thụ, Tuệ Văn, Tuệ Tư, Trí Di, Quán Đỉnh (Chương An đại sư), Trí Uy, Tuệ Uy, Huyền Lãng, Trạm Nhiên. Ngoài ra, lấy thiền sư Tuệ Văn làm sơ tổ, hoặc lấy đại sư Trí Di làm sơ tổ. Đại sư Trí Di là học trò của thiền sư Tuệ Tư, thừa kế pháp Thiền Quán của phái Thiền Nam Trung quốc, nhập với Trung Quán Kiến của phái Tam Luận Bắc Trung quốc, kính thờ kinh "Diệu Pháp Liên Hoa" vì thế cũng còn có tên là Phái Pháp Hoa.
Tuệ Tư lấy cơ sở lý luận của Tuệ Văn để phát triển thành lý luận "một tâm mà xét thấu cả ba pháp": nhất thiết tất cả sự vật đều do nhân duyên sinh ra, không có thực thể nào cố định bất biến cả, đó là quán không (contemplation de la vacuité); tuy là như thế nhưng nhất thiết tất cả sự vật đều có tướng mạo của nó, đó là quán giả (contemplation de l'illusion); nhưng mà không cùng với giả lại là một, gọi là quán trung (contemplation de la voie médiane). Đó là trung tâm tư tưởng của Phái Thiên Đài.
Tôn chỉ của phái Thiên Đài là kinh "Diệu Pháp Liên Hoa," chỉ nam là "Đại Trí Độ Luận,""Pháp Hoa Huyền Nghĩa" và "Pháp Hoa Văn Cú," trợ giúp ban đầu là kinh "Đại Bàn Niết Bàn," phương pháp nghiền ngẫm suy xét là kinh "Đại Bàn Nhược."
Năm 804, tuân theo lệnh của hoàng đế Kammu qua Trung Hoa nghiên cứu đạo Phật với mục đích gầy dựng một Phật giáo phù hợp với bản sắc của dân tộc Nhựt Bản, Sư Saicho (Hán tự: 最澄 Tối Trừng 766-822 AD) đi thuyền qua Trung Hoa học Thiền với Sư Tiêu Nhiên , Thiên Đài tông với Sư Đạo Thuý , Chân Ngôn tông với Sư Thuận Hiểu . Một năm sau Sư trở về Nhựt, và vào năm 806, Sư sáng lập Thiên Đài tông ( còn đọc là Thiên Thai tông).
Thiên đài tông phát nguyên địa vi Quang châu Đại Tô sơn Tịnh Cư tự. Nhân kỳ sáng thủy nhân Trí Di thường trú Triết Giang Thiên Đài sơn thuyết pháp , cố xưng Thiên Đài tông . Thiên Đài tông thị Trung quốc Phật giáo tối tảo sáng lập đích nhất cá tông phái , tịnh vu 9 thế kỉ sơ bị Nhựt Bổn tăng nhân Tối Trừng truyền đáo Nhựt Bổn.
Thiên Đài tông học thống tự xưng hữu cửu tổ: Long Thụ, uệ Văn, Tuệ Tư, Trí Di, Quán Đỉnh (Chương An đại sư), Trí Uy, Tuệ Uy, Huyền Lãng, Trạm Nhiên. Lánh hữu dĩ Tuệ Văn thiền sư vi sơ tổ, hoặc dĩ Trí Di đại sư vi sơ tổ. Trí Di đại sư vi Tuệ Tư thiền sư chi đồ, thừa kế Trung quốc nam phương đích thiền quán, dữ bắc phương tam luận tông đích
Xem ra mối tương quan giữa "nhất tâm tam quán" (triple contemplation) của phái Thiên Đài và mẫu hình ba-con-khỉ-bịt-tai, bịt-miệng-và-bịt-mắt là không hợp lý.
Cũng có giả thuyết cho rằng triết lý ba-con-khỉ-bịt-tai, bịt-miệng-và-bịt-mắt có thể do các nền văn hóa của Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo đại thừa nhòa lẫn với nhau, rồi truyền từ Trung quốc vào Nhựt Bản bắt đầu từ khoảng thế kỷ thứ VIII mà ngày nay, người ta không thể nào chứng minh rõ ràng. Giả thuyết này dựa vào câu nói sau đây trong Luận ngữ, một cuốn sách có tính chất kinh điển của Nho gia do các học trò của Khổng Tử biên soạn và chỉnh lý các lời dạy của Khổng Tử:
Phi lễ vật thị , phi lễ vật thính , phi lễ vật ngôn , phi lễ vật động
Trái với lễ chớ nhìn, trái với lễ chớ nghe, trái với lễ chớ nói, trái với lễ chớ làm.
trung quán kiến, tôn phụng "Diệu Pháp Liên Hoa kinh", nhân thử dã bị xưng vi Pháp Hoa tông.
Tuệ Tư tại Tuệ Văn đích lý luận cơ sở thượng phát triển liễu "nhất tâm tam quán" đích lý luận: nhất thiết sự vật đô do nhân duyên sở sanh, một hữu cố định bất biến đích thực thể, giá thị quán không; đãn tuy nhiên như thử, nhất thiết sự vật đô hữu tự kỷ đích tượng mạo, giá thị quán giả; nhiên nhi không dữ giả thị đồng nhất đích, thử vị quán trung. Giá thị Thiên Đài tông đích trung tâm tư tưởng.
Thiên Đài tông đích tôn chỉ thị "Diệu Pháp Liên Hoa kinh," chỉ nam thị "đại trí độ luận," "pháp hoa huyền nghĩa" và "Pháp Hoa văn cú," phù sơ thị "Đại Bàn Niết Bàn kinh," quán pháp thị "Đại Bàn Nhược kinh."
Lễ nghĩa là gì? Trong sinh hoạt loài người, một khi nảy ra một số quy ước về cung cách cư xử hoặc nói năng, và được mọi người thừa nhận thì gọi đó là lễ. Thí dụ con không được cãi lời cha mẹ, vợ không được trả treo với chồng. Văn hóa Tây phương cũng tương tự như thế (do not talk back). Ngược lại là vô lễ. Dưới đây là phần trích Luận Ngữ:
Luận ngữ
Nhan Uyên đệ thập nhị
Đệ nhất chương
Nhất Tiết: Nhan Uyên vấn nhân. Tử viết, "Khắc kỷ phục lễ vi nhân, nhất Nhựt khắc kỷ phục lễ, thiên hạ quy nhân yên, vi nhân do kỷ, nhi do nhân hồ tai."
Nhị Tiết: Nhan Uyên viết, "Thỉnh vấn kỳ mục." Tử viết, "Phi lễ vật thị , phi lễ vật thính , phi lễ vật ngôn , phi lễ vật động.." Nhan Uyên viết, "Hồi tuy bất mẫn, thỉnh sự tư ngữ hỷ."
Nghĩa:
Luận ngữ
Thiên 12: Nhan Uyên
Chương I
Tiết 1: Nhan Uyên hỏi thế nào là lòng nhân (lòng thương người). Tử nói rằng, "đánh đổ được cái ham muốn riêng của mình để phục lại cái lễ tức là lòng nhân, ngày nào kiềm chế được ham muốn riêng của mình để phục lại cái lễ thì ngày đó mọi người quy về lòng nhân, làm điều nhân do làm từ chính mình, há do người nào khác sao?"
Tiết 2: Nhan Uyên nói, "Xin cho hỏi về các điều mục thiết yếu của lòng nhân." Tử nói rằng, "Trái với lễ chớ nhìn, trái với lễ chớ nghe, trái với lễ chớ nói, trái với lễ chớ làm." Nhan Uyên nói, "Tuy Hồi này không sáng suốt nhưng xin phụng sự các điều Thầy mới dạy."
Điêu khắc gỗ năm 1646 AD
Bảo vật của đền Hase Dera tại Kamakura, Nhật Bản

Phạm Văn Bân

No comments: